Bệnh còi xương hay xuất hiện ở trẻ dưới 3 tuổi, đặc biệt là trẻ dưới 1 tuổi, trẻ sinh non, thiếu cân. Nguyên nhân chủ yếu gây còi xương ở trẻ là tình trạng thiếu ánh sáng mặt trởi khiến cho tiến tình tự tổng hợp Vitamin của cơ thể bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, còn do chế độ ăn uống không hợp lý như trẻ không được bú sữa mẹ thường xuyên hay bị tiêu chảy làm giảm hấp thụ
Vitamin D.
Những biểu hiện của còi xương thay đổi theo từng thời kỳ tiến triển. Đối với giai đoạn sớm, trẻ hay quấy khóc, ngủ không yên giấc hay giật mình, đổ mồ hôi cả lúc thức lẫn lúc ngủ, có dấu hiệu
rụng tóc hình vành khăn.
Ở giai đoạn muộn, xương sọ có dấu hiệu mềm, thóp trước rộng, bờ mềm, chậm kín, có bướu ở trán, ở đình đầu làm đầu to ra. Trẻ chậm mọc răng, lồng ngực có khi biến dạng như ức gà. Các đầu xương dài bị bè ra, chân cong kiểu vòng kiềng hoặc choãi ra hình chữ X. Cột sống có thể bị gù vẹo, xương chậu bị biến dạng hẹp. Bụng của trẻ thường bị to bè. Trẻ bị còi xương thường chậm biết ngồi, đi. Nếu bệnh năng có thể xuất hiện những cơn co giật do hạ canxi máu.
Ở giai đoạn muộn, bệnh còi xương thường để lại những di chứng không tốt về sau.
Để phòng tránh bệnh còi xương ở trẻ, đối với người mẹ trong thời gian mang thai và cho con bú cần phải tắm nắng, có nghĩa là cần thời gian hoạt động ngoài trời, có chế độ ăn uống đầy đủ dưỡng chất. Vào những tháng cuối của thai kỳ mang thai nên ăn thêm những thức ăn có chứa Vitamin D hoặc uống thêm dầu cá. Có thể phòng bệnh bằng
cách bổ sung Vitamin D trong quí cuối cùng của thai kỳ từ 100 đến 1.200 đơn vị Vitamin d/ngày hoặc một lần duy nhất 100.000 đơn vị đến 200.000 đơn vị từ tháng thứ 7, nếu mẹ không có điều kiện tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.
Đối với trẻ, về mặt dinh dưỡng tốt nhất là mẹ nên cho trẻ bú hoàn toàn sữa mẹ trong 6 tháng đầu. Khi cho trẻ ăn dặm cần bảo đảm bữa ăn đa dạng, đủ dưỡng chất. Đối với trẻ được chăm sóc chu đáo, từ 6 tuần tuổi – 18 tháng tuổi dùng liên tục mỗi ngày 800 -1.000 IU (nếu trẻ khỏe mạnh), 1.500 IU (nếu trẻ ít được ra nắng) và 2.000 IU (nếu thấy trẻ có màu da thẫm). Trẻ 18 - 60 tháng tuổi chỉ sử dụng liều trên trong mùa sương mù, ít ánh nắng.
Nếu trẻ không được chăm sóc chu đáo thì nên dùng liều cao cách nhau một thời gian (6 - 18 tháng). Cứ 6 tháng cho uống 1 liều 200.000 IU. Trẻ 18 - 60 tháng dùng liều duy nhất vào đầu mỗi mùa đông trong năm.
Với trẻ sinh thiếu tháng, từ ngày thứ 8 sau sinh cần cho uống 1.500 IU/ngày cho tới 18 tháng. Sau đó tiếp tục phác đồ bình thường.
Đối với trẻ còi xương, uống 1.200 - 5.000 IU/ngày trong 4 tuần, sau đó tiếp tục dùng liều dự phòng. Dùng 500mg canxi/ngày đối với nhũ nhi; 1.000 mg canxi/ngày đối với trẻ trên 2 tuổi, uống 7 - 10 ngày.
Đối với trẻ trên 6 tháng tuổi, mẹ có thể bổ sung thực phẩm chức năng với các dưỡng chất quan trọng cho xương như: Canxi, Vitamin D3, MK7. Trong đó, canxi là thành phần không thể thiếu cho xương phát triển, Vitamin D3 giúp dẫn canxi từ ruột vào máu. MK7 đưa canxi từ máu vào tới xương, loại bỏ canxi ra khỏi nơi nguy hiểm gây vôi hóa mô mềm, vôi hóa thành mạch….Mang lại hiệu quả cao, giúp trẻ
tăng chiều cao và bảo vệ xương trẻ ngay từ những năm tháng đầu đời. Bên cạnh đó, trẻ trong giai đoạn này hệ thống miễn dịch còn non yếu, vì vậy mẹ cũng nên bổ sung các dưỡng chất giúp tăng cường sức đề kháng cho trẻ: Immune Alpha, Sữa non, FOS …từ đó, trẻ có sức đề kháng tốt, hấp thụ tối đa được các dưỡng chất mẹ bổ sung, phát triển một cách toàn diện nhất.
Lưu ý: Khi cho trẻ uống vitamin D phải có chỉ định của bác sĩ.
Trong quá trình điều trị, cần chú ý phát hiện các dấu hiệu ngộ độc vitamin D như chán ăn, buồn nôn, tăng canxi máu.... Nếu có các dấu hiệu trên cần thông báo cho bác sĩ biết để có biện pháp xử lý thích hợp